Một trong những vấn đề kinh tế còn tồn tại lớn nhất hiện nay là lạm phát 18%, và đặc biệt với việc công bố Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) mới, người Mỹ coi đây là vấn đề lớn nhất của đất nước trong 12 tháng qua kể từ năm 1981. Ngay cả khi loại trừ giá thực phẩm và giá gas, lạm phát ở mức 5,9%/CPI, cao hơn đáng kể so với những năm gần đây.
Như biểu đồ dưới đây cho thấy, đây là một sự thay đổi khá căn bản so với lịch sử gần đây. Từ năm 1990 đến năm 2020, một tỷ lệ nhỏ người Mỹ, luôn ở mức dưới 10% và thường thấp hơn rất nhiều, đặt lạm phát là vấn đề hàng đầu của đất nước. Tuy nhiên, mối lo ngại vẫn thấp hơn nhiều so với năm 1981. Năm đó, đa số người Mỹ coi lạm phát là vấn đề lớn nhất của đất nước.

Năm 1981, Hoa Kỳ đang ở trong tình trạng lạm phát tàn bạo ở mức hai con số lần thứ hai trong vòng chưa đầy một thập kỷ. Giá xăng cao và tỷ lệ thế chấp cực kỳ cao đã khiến nhiều công dân trung lưu không thể mua được nhà ở. Thị trường lao động cũng yếu, với tỷ lệ thất nghiệp trên 7%. Đất nước đang lâm vào khủng hoảng toàn diện.
Cuộc khủng hoảng phải kết thúc, và hầu hết các nhà kinh tế đã giao nhiệm vụ cho Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Paul Volcker chấm dứt cuộc khủng hoảng. Volcker đã kiểm soát lạm phát thông qua phương pháp tiếp cận kinh tế học hóa. Ông đã thiết kế hai cuộc suy thoái lớn nhưng tồn tại trong thời gian ngắn để cắt giảm chi tiêu và kiềm chế lạm phát. Vào cuối những năm 1980, lạm phát đã giảm và nền kinh tế đang bùng nổ.

Lạm phát năm 2022 không tồi tệ như năm 1978-1982, nhưng đó là mức lạm phát tồi tệ nhất mà Mỹ từng chứng kiến trong nhiều thập kỷ. Vì vậy, Cục Dự trữ Liên Bang bắt đầu tăng lãi suất như Volcker. Cục Dự trữ Liên bang không cố gắng tạo ra một cuộc suy thoái, nhưng những hành động này có thể gây ra những hậu quả khôn lường. Và nếu lạm phát tiếp tục là một vấn đề lớn, nhu cầu về một giải pháp theo kiểu Volcker càng trở nên cấp thiết hơn.
Lạm phát ảnh hưởng như thế nào đến nước Mỹ trong những năm 1970.
Sử dụng thước đo lạm phát được khuyến nghị của Cục Dự Trữ Liên Bang, chi tiêu cho Tiêu dùng Cá nhân (PCE), chúng ta có thể thấy rằng giá cả bắt đầu tăng nhanh chóng hàng năm, bắt đầu từ khoảng giữa những năm 1960.

Sau cuộc suy thoái ngắn năm 1970, giá cả dao động nhẹ, đầu tiên vào năm 1974-1975 và sau đó là vào cuối những năm 1970, khi lạm phát đạt đỉnh, và sau đó giảm mạnh. Tỷ lệ phần trăm đó không bao giờ vượt quá 4% một năm.
Vậy điều gì đã gây ra lạm phát trong những năm 1960 và 1970? Volcker đã làm gì để chống lại nó?
Trước năm 1965, lạm phát đã ổn định trong nhiều năm, dao động quanh mức 2%. Tuy nhiên, vào thời điểm này, Tổng thống Lyndon Johnson và các đồng minh trong Quốc hội của ông đã bắt đầu tăng chi tiêu cho các chiến dịch xóa đói giảm nghèo và chiến tranh leo thang ở Việt Nam.
Chính quyền Johnson không có ý định cắt giảm chi tiêu. Chiến tranh Việt Nam và các vấn đề chống đói nghèo là ưu tiên hàng đầu của tổng thống và ông ấy cũng sẽ không dừng lại. Do đó, lạm phát tăng dần và ngày càng cao. Nó thậm chí còn tồi tệ hơn dưới thời Richard Nixon. Chiến tranh Việt Nam vẫn đang tiếp diễn và tốn kém, nhưng vào năm 1971 Nixon quyết định chấm dứt hệ thống đổi vàng lấy đô la (bản vị vàng).
Trước đó, như một phần của hệ thống Bretton Woods được giới thiệu vào năm 1944 nhằm ổn định tỷ giá hối đoái thế giới, hầu hết các nước phương Tây đều cố định tiền tệ của họ với đồng đô la và có thể chuyển đổi sang vàng với tỷ giá 35 đô la mỗi ounce do mình thực hiện.
Nhưng hệ thống định giá quá cao đồng đô la so với các loại tiền tệ khác. Hơn nữa, có nhiều đô la lưu thông hơn vàng. Khi lạm phát của Hoa Kỳ làm mất giá đồng đô la, các quốc gia khác bắt đầu yêu cầu chuyển đổi đô la thành vàng với tỷ giá mà Hoa Kỳ không thể xử lý, và một số nước như Tây Đức, thẳng thừng phản đối hệ thống này. Theo lời khuyên của Thứ trưởng Bộ Tài chính Paul Volcker, Nixon đã cho nổ tung toàn bộ hệ thống.
Ông thông báo kiểm soát tiền lương và giá cả. Điều đó có nghĩa là vừa chống lạm phát do các quyết định của ông ta gây ra vừa chống lại áp lực lạm phát đã xây dựng trước đó. Những hạn chế này sẽ giữ cho lạm phát duy trì trong một thời gian ngắn, nhưng nếu những hạn chế này được dỡ bỏ sau đó, lạm phát có thể trở nên tồi tệ hơn.
Năm 1973, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ. Đây được coi là sự trừng phạt đối với sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các nước khác đối với Israel trong Chiến tranh Trung Đông lần thứ tư. Giá xăng gần như tăng gấp 4 lần kể từ tháng 10 năm 1973 đến tháng 1 năm 1974, góp phần vào hai lần tỷ lệ lạm phát cao trong thập kỷ đó và dẫn đến một cuộc suy thoái kéo dài kết thúc vào năm 1975.
Sau khủng hoảng, lạm phát ổn định ở mức 6-7%/năm, tuy không đáng kể nhưng vẫn dưới mức hai con số trước khủng hoảng. Tuy nhiên, lạm phát tăng trở lại nhanh chóng, một phần do giá lương thực và năng lượng tăng.
Đó là khó khăn mà Volcker phải đối diện.
Cú sốc Volcker
Trước khi Volcker nhậm chức Chủ tịch Fed vào ngày 6 tháng 8 năm 1979, Fed đã cố gắng tăng nhẹ lãi suất với hy vọng điều chỉnh giá cả, nhưng kết quả không đáng kể. Volcker, phó chủ tịch và là một trong những người ủng hộ Ủy ban Thị trường Mở Liên bang, là một người thích điều khiển. Khi Tổng thống William Miller được Tổng thống Jimmy Carter bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngân khố, Carter đã bổ nhiệm Volcker làm người kế nhiệm Miller.
Sau khi đạt được lợi nhuận khiêm tốn trong tháng đầu tiên nắm quyền, ông bất ngờ triệu tập một cuộc họp vào ngày 6 tháng 10 năm 1979 và áp đặt chính sách tiền tệ mới, thắt chặt hơn đối với Fed. Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã hứa sẽ cho phép phạm vi lãi suất rộng hơn nhiều, cho phép tăng lãi suất cao hơn trước đây và thường xuyên điều chỉnh chính sách tiền tệ để đáp ứng với những thay đổi trong cung tiền. Nếu cung tiền tăng quá nhanh, khả năng Fed phá sản là rất cao.
Lãi suất của Fed đã được chốt ở mức 13,7% trong tháng này. Đến tháng 4, nó đã tăng 4 điểm lên 17,6% và vào năm 1981 là 20%. Nói chung, lãi suất cao hơn giữ lạm phát trong tầm kiểm soát bằng cách giảm chi tiêu. Điều này có thể làm chậm nền kinh tế và tạo ra thất nghiệp lớn. Khi Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất, nó sẽ tăng lãi suất đối với mọi thứ, từ nợ thẻ tín dụng đến thế chấp cho đến các khoản vay kinh doanh. Tín dụng kinh doanh đắt hơn, vì vậy các doanh nghiệp đang cắt giảm hợp đồng và thuê mướn. Khi các khoản thế chấp cao hơn, người ta mua nhà ít hơn. Mọi người chi tiêu ít hơn khi tỷ lệ thẻ tín dụng cao hơn. Kết quả là chi tiêu ít hơn, lạm phát ít hơn, nhưng tăng trưởng kinh tế cũng chậm hơn.

Phương pháp này cần hai lần thử nghiệm để đạt được hiệu quả mong muốn. Sự thắt chặt của Volcker đã làm chậm lại hoạt động kinh tế, và vào tháng 1 năm 1980, Hoa Kỳ bước vào thời kỳ suy thoái. Tuy nhiên, lãi suất của Fed bắt đầu giảm mạnh sau tháng 4, kiềm chế hiệu quả nỗ lực kiềm chế lạm phát của Fed. Fed sau đó đã thắt chặt trở lại, gây ra một cuộc suy thoái khác vào tháng 7 năm 1981. Lần này nó tệ hơn nhiều so với lần đầu tiên. Tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh 7,8% trong cuộc suy thoái năm 1980, nhưng đạt đỉnh 10,8% vào tháng 12 năm 1982, giữa cuộc suy thoái Volcker thứ hai kéo dài 16 tháng. Con số này còn nhiều hơn cả mức đỉnh điểm của cuộc Đại suy thoái năm 2009. Trong những năm 1980, những chính sách này được gọi là “Cú sốc Volcker.”
Vào thời điểm Volcker từ chức vào tháng 8 năm 1987, lạm phát đã giảm từ mức đỉnh 9,8% vào năm 1981 xuống còn 3,4%. Kể từ đó, lạm phát thấp được duy trì đã trở thành tiêu chuẩn. Lạm phát ở Hoa Kỳ chưa bao giờ vượt quá 5% từ tháng 9 năm 1983 đến năm 2022.
Đối với một số người, Volcker là chủ tịch Fed thành công nhất trong lịch sử và là một chính trị gia can đảm, người đã đánh bại lạm phát ngay cả khi hành động của ông không được lòng dân.
Một trong những đối thủ của Volcker lúc đó là Lãnh đạo nắm đa số ở Thượng viện Robert Byrd. Ông Byrd nói: “Đó là một chính sách vô vọng để giữ lạm phát trong tầm kiểm soát hoặc bảo vệ đồng đô la bằng cách cho nhiều người nghỉ việc, đóng ca làm việc, đóng cửa các mỏ lúa. Các thợ xây và thợ mộc đã gửi thư đến văn phòng Volcker phàn nàn rằng họ không thể xây nhà vì thị trường thế chấp đã cạn kiệt. Nông dân biểu tình bằng cách dùng máy kéo phong tỏa trụ sở Fed.
Các nhà phê bình tự hỏi liệu Volker có thể nhân đạo hơn để đánh bại lạm phát mà không gây ra tỷ lệ thất nghiệp cao nhất kể từ cuộc Đại suy thoái hay không? Họ bác bỏ quan điểm cho rằng suy thoái kinh tế sẽ gây ra khó khăn không cần thiết. Barker cũng đổ lỗi cho “Cú sốc Volcker” đã gây ra một làn sóng tài chính hóa ở Hoa Kỳ. Lãi suất cao khiến các công ty truyền thống khó vay tiền để đầu tư hiệu quả và thu hút tiền nước ngoài (nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn) vào các ngân hàng Mỹ cung cấp lãi suất cao.
Cú sốc Volcker vào đầu những năm 1980 cũng gây ra một cuộc khủng hoảng nợ ở Mỹ Latinh. Sau khi Volcker tăng lãi suất, nhiều chính phủ Mỹ Latinh đã vay từ các ngân hàng Mỹ tính lãi suất cao hơn nhiều. Khi Mexico vỡ nợ vào năm 1982, các quốc gia khác cũng làm theo, và cho đến ngày nay vẫn mắc nợ rất nhiều và không có cách nào giải quyết được.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), theo lệnh của Volcker và Fed, đã đứng ra cho vay với tư cách là người cho vay phương sách cuối cùng và cứu trợ các chính phủ Mỹ Latinh để đổi lấy việc cắt giảm chi tiêu, thâm hụt và hứa hẹn cải cách cơ cấu kinh tế. Nhiều chính phủ đã phản ứng bằng cách cắt giảm dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ xã hội khác. Những người chỉ trích cho rằng điều này đang khiến tình hình kinh tế trở nên tồi tệ hơn đối với những người nhận và thậm chí có thể làm xấu đi hệ thống chăm sóc sức khỏe khi tài chính ngày càng eo hẹp.
Cú sốc Volcker so với ngày hôm nay sẽ như thế nào?
Ngày nay, với cú sốc Volcker, mọi thứ đều quan trọng hơn bao giờ hết. Lạm phát vẫn ở mức khoảng 5%, thấp hơn nhiều so với mức đỉnh trong những năm 1970 và đầu những năm 80, nhưng vẫn là mức cao nhất trong một thời gian dài, theo thước đo cốt lõi của Cục Dự trữ Liên bang về chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE).
Và công chúng đang rất phẫn nộ về điều đó. Tâm lý người tiêu dùng tương tự như năm 2008 và 2009, đó là những thời điểm tồi tệ đối với sản lượng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp. Lạm phát được lặp lại trong các cuộc thăm dò về vấn đề lớn nhất của nước Mỹ.
Sử dụng mô hình của Volcker, nhiều khả năng Fed sẽ cần phải mạnh tay tăng lãi suất để kích hoạt suy thoái. Đây không phải là quan điểm chính sách hiện tại của Fed. Vào tháng 6, Fed đã tung ra đợt tăng lãi suất lớn nhất trong 28 năm. Nhưng tại cuộc họp báo công bố động thái này, Chủ tịch Fed Jay Powell cho biết Hội đồng quản trị “không cố gắng kích hoạt một cuộc suy thoái ngay bây giờ. Tất nhiên, mục tiêu của chúng tôi là giữ lạm phát quanh mức 2% trong khi giữ cho thị trường lao động vững mạnh.”
Tuy nhiên những người chỉ trích Powell cho rằng nỗi đau kinh tế kiểu Volcker có thể là điều cần thiết. Larry Summers, cựu Bộ trưởng Bộ ngân khố, người từng được đề cử làm chủ tịch Fed vào năm 2013, đã tuyên bố: “Chúng ta cần 5 năm tỷ lệ thất nghiệp trên 5% để kiềm chế lạm phát – nói cách khác, chúng ta cần 2 năm tỷ lệ thất nghiệp 7,5% hoặc 5 năm năm thất nghiệp 6% hoặc một năm thất nghiệp 10%”.
Một số người cho rằng nền kinh tế không nhất thiết phải ở trong tình trạng “tồi tệ”. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát giai đoạn 2021-2022 là do dư thừa tiền chảy ra khỏi thị trường lao động. Hiện nay có một số bằng chứng hiếm hoi cho thấy lạm phát là do lương tăng. Nếu vậy, nó sẽ củng cố quan điểm rằng tỷ lệ thất nghiệp cao hơn là cần thiết để giữ mức lương thấp và kiểm soát lạm phát tổng thể. Nhưng tăng trưởng tiền lương thực sự đang chậm lại, điều này nếu câu chuyện là sự thật thì không thể đoán trước được.
Nếu Nhà Trắng và Fed không thể giữ lạm phát trong tầm kiểm soát với các chính sách hiện tại, sự bất mãn sẽ chỉ tăng lên và việc kêu gọi các biện pháp cực đoan để giải quyết vấn đề sẽ ngày càng lớn. Khi nói đến lạm phát, “hành động cực đoan” có nghĩa là các quyết định như cú sốc Volcker, đồng nghĩa là một hoặc hai cuộc suy thoái lớn.
Đây không phải là tương lai của nước Mỹ. Nhưng thực tế ngày nay rất dễ xảy ra phản ứng kiểu Volcker.
Theo Vox | mkaykhoi